Nguyễn Trung Ngạn ( 1289 -1370)

Nguyễn Trung Ngạn (1289 -1370), người xã Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi ( nay là thị trấn Ân Thi, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Thuở nhỏ, ông tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên. Ông xuất thân trong một gia đình bình dân nhưng từ lúc nhỏ đã nổi tiếng thần […]

Nguyễn Trung Ngạn (1289 -1370), người xã Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi ( nay là thị trấn Ân Thi, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Thuở nhỏ, ông tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên. Ông xuất thân trong một gia đình bình dân nhưng từ lúc nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp, khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304) đời vua Trần Anh Tông.


Hậu duệ đời thứ 21, 22 bên nhà bia trong Lăng mộ Nguyễn Trung Ngạn ở làng Thổ Hoàng (Ân Thi)  ảnh báo HY

Năm 24 tuổi, ông làm Giám quan. Vua Trần Minh Tông lên ngôi (1314), ông được cử đi sứ nhà Nguyên lúc 26 tuổi. Năm Đại Khánh thứ 8 (1321), ông làm Thị ngự sử ở đài Ngự sử, sau đổi  ra làm Thông phán ở châu Anh Lãng ( Đại Việt sử ký toàn thư chép là Viêm Lãng). Ở đó, ông nổi tiếng giỏi về chính sự, được cất nhắc làm Thiên tri coi việc ở cung Thánh từ.
Năm Khai Thái thứ 3 (1326), ông được cử làm An Phủ sứ Thanh Hoa ( nay là Thanh Hóa). Năm Khai Thái thứ 6 (1329), ông hộ giá vua Trần Minh Tông đi đánh Đà Giang (Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú chép là đánh Ngưu Hống) và vâng lệnh vua viết quyển Thục lực về cuộc hành quân này. Năm Khai Hựu thứ 4 (1332), coi việc ở viện Thẩm hình, kiêm An Phủ sứ Nghệ An, coi việc chép quốc sử, rồi làm Tào Vận sứ ở lộ Khoái Châu. Ông đặt Tào Thương kho, chuẩn cấp cho dân đói. Năm Khai Hựu thứ 12 (1341), ông cùng với Trương Hán Siêu biên định bộ Hoàng Triều đại điển, khảo soạn bộ Hình thư thi hành. Năm Triệu Phong thứ 2 (1342), ông được thăng chức Hành khiển coi viện Khu mật. Năm 1355, ông được thăng Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Nhập nội Đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm viện Khu mật, Đại học sỹ hầu ở tòa Kinh diên, Trụ quốc, Khai Huyện bá, gia Thân Quốc công.
Trong cuộc đời mình, Nguyễn Trung Ngạn trải qua nhiều chức vụ từ chức Thông giám đến Tể tướng, ở đâu ông cũng là người thanh liêm, hết lòng tận tụy với  công việc làm lợi cho nước cho dân. Ông là nhà chính trị, nhà ngoại giao có tài. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong hai lần đi sứ nhà Nguyên, có ảnh hưởng lớn đến việc bảo đảm chủ quyền và độc lập dân tộc trong cuộc bang giao Nam –  Bắc. Ông tự tóm tắt mình trong mấy câu thơ:

Giới Hiên tiên sinh tài lang miếu
Có chí nuốt trâu từ niên thiếu
Tuổi mới mười hai thái học sinh,
Vừa đến mười sáu dự thi đình
Hai mươi bốn tuổi làm quan giám
Hai mười sáu tuổi sứ Yên Kinh

Nguyễn Trung Ngạn còn là nhà văn, nhà thơ có tài. Thơ ông kết hợp yêu nước, thương dân, trung quân là một, nghệ thuật thơ giàu âm thanh, nhạc điệu, lời lẽ thanh tao điêu luyện. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí nhận xét thơ Nguyễn Trung Ngạn: ” Lời thơ hài mại, phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ Lăng( tức Đỗ Phủ). Những câu thơ hay nhiều không kể xiết. Thơ tứ tuyệt lại càng hay,  không kém gì thơ thời thịnh Đường”.
Với những đóng góp lớn lao cho quê hương đất nước, danh tiếng của Nguyễn Trung Ngạn còn lưu mãi tới ngày nay. Để tưởng nhớ công ơn của ông, không những ở quê hương Hưng Yên mà ở nhiều các tỉnh thành khác trên cả nước, tên ông đã được đặt cho nhiều trường học, đường phố, công trình văn hóa đồng thời giáo dục tình yêu quê hương đất, cũng như noi gương ông trong con đường học hành cho thế hệ trẻ. Tại Hà Nội – nơi ông gắn bó phần lớn cuộc đời có tới 7 ngôi đền thờ ông.

TTTTXTDLHY






TIN BÀI LIÊN QUAN