Lê Đình Kiên- người có công xây dựng Phố Hiến

Lê Đình Kiên (1621-1704), sinh ra ở làng Thiết Đanh, nay thuộc xã Định Tường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình nông dân nghèo, bố mất sớm, sống với mẹ. Vốn có tư chất thông minh, Lê Đình Kiên làm quan dưới thời Lê Trịnh, triều vua Vĩnh Tộ. Ông là […]

Lê Đình Kiên (1621-1704), sinh ra ở làng Thiết Đanh, nay thuộc xã Định Tường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình nông dân nghèo, bố mất sớm, sống với mẹ. Vốn có tư chất thông minh, Lê Đình Kiên làm quan dưới thời Lê Trịnh, triều vua Vĩnh Tộ. Ông là vị quan tài năng, đức độ, không những có tài về cai trị mà còn giỏi thương nghiệp ngoại giao, nổi tiếng xử kiện giỏi.  Tuy không sinh ở Hưng Yên nhưng ông sống chết ở Hưng Yên, đặc biệt có công lớn trong việc mở mang, xây dựng Phố Hiến.


Phố Hiến xưa

Năm Giáp Thìn 1664, khi 44 tuổi, ông nhận lệnh triều đình ra làm trấn thủ vùng Sơn Nam (tức vùng Thái Bình, Hưng Yên). Công lớn của ông là dẹp yên được quân Tàu Ô và mở mang vùng Phố Hiến, được phong đặc tiến phụ Thượng Tướng quân, trung quân Đô đốc Phủ, Hứa đô đốc thiếu bản, Tước quận công hàm Thái Bảo. Sau khi mất ông được truy tặng Thái Bảo, truy phong phúc thần. Lê Đình Kiên cũng là người  thay mặt nhà Chúa giao thiệp với các thương nhân ngoại quốc đến buôn bán ở Phố Hiến.
Suốt 40 năm ông ở trấn Sơn Nam (từ 1664 – 1704), dân sông yên vui, no đủ. Ông đã dành nhiều tâm sức xây dựng Phố Hiến trở nên sầm uất, nổi danh đương thời “Thứ nhất kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.  Lúc ông mất, cả người Việt và người nước ngoài ngụ ở Phố Hiến đều dựng bia ghi công ông. Công lao của Lê Đình Kiên được lưu truyền, khắc ghi qua 2 tấm bia. Nội dung 2 bia cơ bản giống nhau, đều ca ngợi công đức của ông. Bia thứ nhất do nhân dân địa phương dựng năm 1727. Bia thứ hai do Tài trưởng Hải Nam là Trần Đế Đào, người Hoa dựng năm 1723.
Trong bia dựng năm 1723 có đoạn: ” …từ ngày buôn bán tới nay đã vài mươi năm, vui về nghề nghiệp, kẻ gần thì sùng, người xa thì tới , đều là nhờ Anh Linh Vương, tức đức Thái bảo họ Lê không biết bao giờ hết. Ngài yêu dân như con, có mẹo dẹp giặc, lại tiết kiệm trong việc chi dùng để đỡ tốn cuả dân. Tấm lòng yêu nước trung vua của Ngài dù em bé lên ba trong nước cũng đều ca ngợi”.
Còn văn bia của nhân dân địa phương thì ghi: ” Ông xem dân như con, xử kiện công bằng. Lúc xét kiện tụng ông giữ đức ngay thẳng. Đến những việc như xây dựng đền đài, đê đường, cầu cống, kho tàng, ông không tư lợi mà lại lo cho dân không chịu nổi nên đẫ từng đặt ra phép luân phiên và phaesp trữ dùng ( để dành dùng nhiều lần) để đỡ cho sức dân và khỏi tốn của dân. Chính trị công bằng, hình phạt giảm bớt, già trẻ trai gái ai cũng kính phục tấm lòng ông, cảm mến cái đức coi ông như con hiếu vơi cha hiền”.

Theo sách Phố Hiến do Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hào và tiến sĩ Nguyễn Đình Nhã chủ biên, thời Lê Đình Kiên là Trấn thủ, vùng Sơn Nam trật tự trị an được bảo đảm, tập tục và chủ quyền của người Việt được khẳng định. Những người dân trước đây vì đói khổ, loạn lạc phải tha phương cầu thực, ông cho tập trung lại, cho đất lập làng, tạo điều kiện làm ăn sinh sống. Những người Trung Hoa chạy loạn sang Phố Hiến, ông chiêu dụ lại, cấp đất cho làm ăn. Ông khuyến khích nhân dân trồng nhiều nhãn, một loại đặc sản mà Lê Quý Đôn gọi là “vương giả chi quả”, sau này truyền tụng trong câu ca dao, gắn với Hưng Yên:
“Dù ai buôn bắc bán đông
Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên”

Điều đáng quý ở Lê Đình Kiên là ông ổn định xã hội, dẹp trộm cướp không chỉ bằng pháp luật mà còn bằng cả tấm lòng bao dung nhân ái. Ông nổi tiếng là người có tài xét kiện. Bọn trộm cướp truyền tin nhau không dám quấy phá khu vực ông cai quản, nhiều kẻ có tội gặp ông để đầu thú và xin hoàn lương. Việc kiện tụng nhờ đó cũng tinh giảm.

Ông mất năm 1704, thọ 84 tuổi, nhân dân thương tiếc lập miếu thờ gọi là miếu Anh Linh Vương,, miếu này nay không còn. Hiện nay nhà thờ ở làng Thiết Đanh, quê hương Lê Đình Kiên ở Thanh Hóa vẫn còn lưu hai câu đối ca ngợi công đức của ông:
Trị sự liêm bình, kim cổ đan thanh tuế tích
Tại nhân đức trạch, Bắc Nam kim thạch minh danh
(Nghĩa:
Việc cai trị công bằng và liêm chính mãi mãi tiếng ghi sử sách
Đức lớn cho dân cậy, cả Việt Nam lẫn Trung Hoa danh khắc vào đá vàng )






TIN BÀI LIÊN QUAN