ĐẶC SẮC LỄ HỘI TẠI PHỦ THỜ BÀ CHÚA MUỐI VÀ ĐIỆU MÚA ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÀ

Ngày đăng: 07/08/2025
Phủ thờ Bà Chúa Muối nằm tại thôn Tam Đồng xã Thụy Hải huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình (nay là xã Thái Thụy tỉnh Hưng Yên), cách trung tâm tỉnh lị cũ khoảng 35 km về phía Đông Bắc theo trục đường quốc lộ 39A đi thị trấn Diêm Điền, xã Thụy Hải.

Vùng đất các thôn Tam Đồng, Quang Lang, Tân Sơn thuộc xã Thụy Hải đều nằm trong Trang Quang Lang (thời Lý - Trần). Lịch sử Phủ thờ Bà Chúa Muối được lưu lại qua các thần tích và truyền thuyết dân gian trong vùng.

Vào thời nhà Trần tại Trang Quang Lang có một gia đình chồng là Nguyễn Hiền, vợ là Bằng Thị Màu chuyên nghề đánh cá và làm muối. Tuy nghèo song hai vợ chồng hòa hợp, thương yêu nhau và nối đời tu nhân tích đức, chuyên tâm làm các điều thiện. Họ sinh ra một người con gái nhan sắc đẹp rực rỡ như trăng rằm nên đặt tên cho nàng là Nguyệt Ảnh. Nguyệt Ảnh càng lớn càng xinh đẹp, nàng chẳng hợp với công việc vất vả của nghề đánh cá và làm muối nên cha mẹ sắm thuyền để nàng làm nghề buôn bán muối. Nàng buôn bán rất có duyên lại thảo tính theo gương bố mẹ, khi thấy các gia đình xung quanh gặp khó khăn thì nàng đều nói với cha mẹ bớt chút của nhà cấp cho họ một ít. Chính vì vậy mà nàng được cả làng và mọi người đều quý mến.

Một lần thuyền muối của nàng ghé lên kinh đô, quan quân thấy nơi thuyền đậu có đám mây đẹp che phủ, lại thấy sắc diện của nàng đẹp khôn tả liền vào tâu vua. Vua Trần Anh Tông cho vời nàng vào, gặp Nguyệt Ảnh vua thấy đẹp lòng lắm. Thấy nàng đoan trang dịu dàng vua rất yêu mến liền phong Đệ Tam cung phi. Nguyệt Ảnh được vua sủng ái xe loan gối phượng không rời. Rồi nàng có thai, nhà vua nằm mộng thấy có người dâng cho mình trái đào tiên. Quần thần đều cho là điềm lành, nhà vua sắp có Thái tử, vua Anh Tông thấy vậy lại càng mừng rỡ. Được gần gũi vua, nàng Nguyệt Ảnh kể cho nhà vua nghe những nỗi khổ cực của ngư dân và diêm dân ở quê. Nhà vua cảm động, xuống chiếu xá tô thuế cho Trang Quang Lang làm cho nhân dân ai nấy đều cảm ơn công đức của nhà vua và nàng Nguyệt Ảnh.

Cũng vì xa nhà lâu ngày, nhớ cha mẹ, nhớ quê biển, Nguyệt Ảnh xin phép nhà vua được về phụng dưỡng cha mẹ. Vua cho là phải, liền cho thuyền rồng rước nàng về thăm quê và cũng có ý để nàng dưỡng thai. Về quê chưa được bao lâu Nguyệt Ảnh bỗng lâm bệnh, uống thuốc không qua, lễ thần không khỏi. Ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tuất, đang nằm nghỉ chợt thấy lũ trẻ vui đùa bằng trò ông Đùng bà Đà, nàng chợt bật cười và sau đó qua đời. Được tin Nguyệt Ảnh mất, nhà vua Trần Anh Tông vô cùng đau buồn, vua ban sắc phong Nguyệt Ảnh làm “Từ Ý Thái Hòa Đệ Tam cung phi Linh Ứng Tôn thần” và sai quan quân về Trang Quang Lang làm lễ an táng. Vua lại ban tiền bạc và sắc cho dân lập phủ điện để phụng thờ làm Phúc thần.

Trải qua thời gian, phủ thờ Bà Chúa Muối bị hư hại và phá bỏ. Năm 1988, người dân trong vùng xây tạm lại một phủ nhỏ để thờ bà trong khuôn viên chùa Hưng Quốc. Năm 2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định khôi phục lại phủ thờ Bà Chúa Muối vào đúng nơi xa xưa đã thờ phụng bà. Phủ hiện tại có 3 gian, có hậu cung và những hương án bàn thờ, tượng thờ; trong phủ có một số vật dụng đặc thù liên quan đến nghề làm muối như xe cút kít, gáo múc nước chạt, tang, cào muối trên sân phơi… Phủ Bà Chúa Muối hiện còn lưu giữ một bức hoành phi sắc phong thời Trần và hai bộ câu đối cổ. Tại chùa Hưng Quốc vẫn còn lưu giữ được một tấm bia ghi lại lịch sử xây dựng chùa, nơi thờ của bà Chúa Muối và một sắc phong của vua Khải Định phong thần cho bà vào năm 1924.

Hàng năm cứ vào ngày 14 tháng 4 âm lịch tại Trang Quang Lang xưa và nay là xã Thái Thụy có lệ tế bà Nguyệt Ảnh bằng điệu múa ông Đùng bà Đà, đây là một trong những điệu múa cổ xưa nhất của người Việt. Trang Quang Lang xưa có 8 giáp. Mỗi giáp phải làm một hình nộm người đàn ông cao chừng 6 thước cổ (khoảng 1,8m) mặt vuông, tô màu đỏ; một hình nộm đàn bà mặt tròn, tô màu trắng. Cả hai hình nộm này đều đan bằng tre hóp. Trên mỗi mặt đều vẽ mắt, mũi, miệng... Sau khi đã làm lễ tế thánh, các ông Đùng bà Đà nhảy múa từng đôi trong sân đình rồi làm động tác “Chập chập, chinh chinh” theo tiếng trống và nhạc đệm cùng với tiếng reo hò cổ vũ của mọi người. Sau đó từng cặp lắc lư đuổi nhau chạy khắp các đường, ngõ trong làng, lúc thì nhảy múa, lúc thì “chập chinh” vào nhau. Dân làng và trẻ em thấy thế làm vui thích. Còn trong làng thì nhà nhà sắp cỗ, cỗ có khoai lang, dưa chuột, chuối và ngô luộc... cùng các vật phẩm nông nghiệp khác để cúng ông Đùng bà Đà cầu xin sự may mắn, sinh đẻ con cái vuông tròn, làm ăn thịnh vượng; xong lễ chia quà cho cả nhà và hàng xóm ăn cùng lấy may. Khi mặt trời lặn là lúc người ta làm lễ tế ông Đùng bà Đà; sau đó rước hình nộm từ chùa ra Phủ Chúa. Dân làng chạy theo rất đông và ai cũng cố dứt được một nan tre trên các hình nộm hoặc một bông hoa trang điểm trên người các bà Đà (thông thường đó là loài hoa bọ gà mọc rất nhiều tại địa phương) đem những thứ đó về nhà hoặc ra ruộng, người ta tin là sẽ xua đuổi được tà khí, trẻ nhỏ ngủ yên giấc, ít bệnh tật và các nghề làm ăn khác cũng thịnh đạt hơn.

Lễ tế Bà Chúa Muối và hội múa ông Đùng bà Đà diễn ra trong khoảng hai tiếng đồng hồ. Dân làng và khách thập phương dự lễ hội đều hòa tâm hồn mình vào một ý nghĩa vui vẻ, hướng thiện và phồn thực, cầu xin những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cá nhân, gia đình và cộng đồng.

Trải qua hàng trăm năm, lễ hội truyền thống Bà Chúa Muối với tục múa dân gian ông Đùng bà Đà vẫn được duy trì tại địa phương nhằm hướng về cội nguồn, thể hiện lòng thành kính với Bà Chúa Muối, đồng thời giáo dục cho các thế hệ sau biết gìn giữ, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc./.

                                                                                                            Bài: XTDLHY. Ảnh: sưu tầm






TIN BÀI LIÊN QUAN