Nguyễn Bình – Vị Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam

Hưng Yên là mảnh đất địa linh nhân kiệt, đã sản sinh ra biết bao người con ưu tú, trung kiên, huyện Yên Mỹ tự hào khi có Trung tướng Nguyễn Bình. Ông tên thật là Nguyễn Phương Thảo, sinh năm 1908, được phong Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. […]

Hưng Yên là mảnh đất địa linh nhân kiệt, đã sản sinh ra biết bao người con ưu tú, trung kiên, huyện Yên Mỹ tự hào khi có Trung tướng Nguyễn Bình. Ông tên thật là Nguyễn Phương Thảo, sinh năm 1908, được phong Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.


Trung tướng Nguyễn Bình

          Nguyễn Bình sinh ra trong một gia đình trung lưu có 5 người con, ông là thứ 4. Từ nhỏ ông theo gia đình sống ở thành phố Hải Phòng. Năm 17 tuổi đang học năm thứ 2 trường Trung học Hải Phòng, vì những hoạt động yêu nước và bị thực dân Pháp truy lùng, ông trốn gia đình vào Nam giao du với nhà văn giang hồ Vương Sơn. Sau ông kết thân với nhà văn, nhà báo Trần Huy Liệu bấy giờ là đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng và trở thành đảng viên tích cực của Đảng này, giữ chức Trưởng ban tổ chức. Năm 1928, Xứ bộ Việt Nam Quốc dân Đảng Nam kỳ được thành lập, hoạt động với tôn chỉ: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Ông được bầu vào Ban chấp hành Xứ bộ, Trần Huy Liệu giữ chức Bí thư.
Năm 1929, ông và Trần Huy Liệu bị bắt, bị kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo. Khi ở tù, được tiếp xúc với những đảng viên cộng sản, ông có thiện cảm với Đảng Cộng sản, đường lối đấu tranh của ông bắt đầu ngả sang những người cộng sản. Chính vì vậy mà ông bị bọn cầm đầu Quốc dân Đảng thanh trừng, bị khoét mất mắt trái. Cũng từ đó ông nhận ra rằng khẩu hiệu của chủ nghĩa Tam dân thực chất chỉ là khẩu hiệu suông, còn bọn cầm đầu thì theo mục đích: “Vinh thân phì gia” và không ngần ngại thủ tiêu những đồng đảng khác chính kiến.
Năm 1935, mãn hạn tù, ông trở về quê nhà. Tuy bị quản thúc nhưng ông vẫn nuôi ý chí cách mạng, bí mật xây dựng Đông Triều làm căn cứ chống Pháp một cách độc lập. Khoảng năm 1941 – 1952, ông được tổ chức Đảng và Việt Minh giao cho nhiệm vụ mua vũ khí chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời còn vận động binh lính các đồn Thủy Nguyên, Cửa Ông, thị xã Kiến An cung cấp vũ khí. Nhờ súng đạn nhiều mà Đông Triều trở thành chiến khu vững vàng và chùa Bắc Mã là tổng hành dinh của quân giải phóng chiến khu Đông Triều.
Đêm 12-3-1945, ông tham gia đánh trận đồn Bần – Yên Nhân, thu được nhiều thắng lợi. Trận đánh đồn Bần được coi là trận đánh kiểu mẫu ở đồng bằng.
Tháng 4-1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ quyết định cả nước chia làm 7 quân khu, Bắc Bộ có 4, ông giữ chức Tư lệnh Đệ tứ quân khu (tức chiến khu Đông Triều gồm các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng, Hòn Gai, Móng Cái và Lạng Sơn).
Trong tháng 6, tháng 7-1945, ông chỉ huy nhiều trận đánh lớn, thu được nhiều lương thực và vũ khí, như trận phục kích trên sông Kinh Thầy, trận tấn công đồng loạt 5 đồn Thanh Hà, Kinh Môn, Thuỷ Nguyên, Uông Bí và Bí Chợ, đặc biệt là trận đánh chiếm giải phóng thị xã Quảng Yên, là tỉnh lị duy nhất ở miền Bắc về tay nhân dân trước Cách mạng tháng Tám. Trong các trận này thu 600 súng trường, 40 trung liên. Thừa thắng ông mang quân đi yểm trợ cuộc khởi nghĩa ở Hải Phòng, sau đó giải phóng Tiên Yên, Ba Chẽ, Hòn Gai, Cẩm Phả, Cát Bà.
Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông dẫn gần 100 anh em tiến theo cờ đỏ sao vàng trên đường 18 hướng tới Đông Triều. Cả đoàn chỉ có một súng trường, còn toàn giáo mác. Cánh tay phải của mỗi người đeo một băng đỏ dính sao vàng. Riêng trên ngực ông có gắn miếng vải đỏ có chữ TCH – tức Tổng chỉ huy… Từ chiến khu Đông Triều, ông đã chỉ huy lực lượng tiến công phối hợp với nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức giành chính quyền ở Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An. Hải Dương là một trong những tỉnh giành được chính quyền đầu tiên trong cả nước, trước khi mệnh lệnh tổng khởi nghĩa về đến. Sau đó, ông được giao làm khu trưởng Khu duyên hải Bắc Bộ, ông là người có công lớn trong bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ ở đây.
Do có biệt tài về quân sự, tháng 9/1945, ông được Hồ Chủ tịch cử vào miền Nam lo việc thống nhất các lực lượng vũ trang tại chiến trường Nam Bộ.
Trong những ngày đầu kháng chiến, tình hình Nam Bộ hết sức rối ren, phức tạp, có thể ví như thời kỳ “Thập nhị sứ quân” – gồm nhiều đảng phái, anh hùng hảo hán và phải đối diện với một đội quân viễn chinh hùng hậu. Nguyễn Bình đã tìm mọi cách tập hợp các lực lượng kháng chiến dưới sự chỉ huy chung và nhanh chóng tổ chức một cuộc kháng chiến toàn lực, toàn diện.
Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn vì trong Nam lúc đó rất nhiều màu sắc chính trị, đảng phái và tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, Hải Hồ (do Nhật tổ chức)… Nguyễn Bình tìm được giọng nói thích hợp với từng hạng người. Với tư sản Sài Gòn, ông đề cập tinh thần quốc gia. Với nông dân, ông nói về chia ruộng đất các đại điền chủ cấp cho dân nghèo. Với thanh niên ông hô hào lòng dũng cảm vì nước quên mình… Nhưng ông cũng dùng cả hình phạt với những kẻ lợi dụng chiến tranh để làm giàu bằng cách hợp tác với Pháp… Tổng hành dinh của ông ở giữa Đồng Tháp Mười mà lại tiếp giáp cửa ngõ Sài Gòn, nhờ khéo ngụy trang mà không bị quân Pháp tìm thấy. Một bộ máy hành chính, kinh tế và quân sự cực kỳ phức tạp được thiết lập trên khắp Nam Bộ. Tất cả các làng và các phường hộ trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn đều có cán bộ lãnh đạo nhân dân, thu thuế và thi hành các bản án dành cho bọn phản động…
Vào Nam, Nguyễn Bình đã sử dụng tài đức của mình kể cả tác phong anh hùng mã thượng để thu phục các nhóm của Bảy Môn, Mười Lực, Mười Trí, Bảy Viễn, Tám Mạnh, Ba Dương… Chẳng những thế, tướng Nguyễn Bình còn thu phục được giới trí thức làm việc như giáo sư Phạm Thiều, Đặng Minh Trứ, luật gia Lê Đình Chi, Huỳnh Kim Trương, Huỳnh Văn Nghệ…
Những chiến công buổi đầu của quân dân Nam Bộ được gắn liền với tên tuổi Nguyễn Bình, khiến các giới chính trị, quân sự Pháp cũng phải kính nể.
Năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngày 25-1-1948, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh phong cho ông hàm Trung tướng. Đây là Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm 1951, theo yêu cầu của Trung ương, ông lên đường ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi ông bị giặc phục kích, hy sinh tại biên giới Việt Nam-Campuchia.
Trung tướng Nguyễn Bình là người chỉ huy mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, giữ kỷ luật nghiêm minh, lập nhiều chiến công xuất sắc ở những nơi nguy hiểm vào những thời điểm khó khăn nhất. Ông có công trong việc thống nhất lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ và xây dựng Ban công tác thành (biệt động) Sài Gòn. Tháng 2-1952, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh truy tặng ông Huân chương Quân công hạng Nhất. Ông cũng là người đầu tiên trong Quân đội được nhận Huân chương cao quý này.
Năm 2000, Bộ Tư lệnh quân khu VII đã di chuyển hài cốt ông về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh.
Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã khẳng định: “Đồng chí Nguyễn Bình là một người cộng sản kiên trung; một tướng lĩnh quả cảm, nghĩa hiệp, giàu đức hy sinh, lòng dũng cảm và tài thao lược. Công lao và tên tuổi của đồng chí mãi sáng ngời trên đài Tổ quốc ghi công”.

                                                                                Ngô Huyền Trang






TIN BÀI LIÊN QUAN